Cúng cô hồn là một hoạt động tín ngưỡng phổ biến tại Việt Nam.
Theo tục lệ thờ cúng tổ tiên và người thân đã qua đời, Cúng
cô hồn có thể là một hành vi mang tính nhân đạo, để "cứu giúp" những
linh hồn khốn khổ. Nhưng đồng thời, cúng cô hồn cũng có thể là một hình thức
"hối lộ" để khỏi bị các oan hồn quấy phá, hoặc để được họ "hỗ
trợ".
Có những
gia đình làm kinh doanh, họ cúng cô hồn nhiều lần trong năm, thường vào các
ngày 2 và 16 âm lịch mỗi tháng. Trong các dịp cúng giỗ, ngoài cúng vái tổ tiên, người ta còn làm
một mâm cỗ để cúng cô hồn. Dịp cúng cô hồn lớn nhất là ngày rằm tháng bảy,
trùng với lễ Vu Lan của Phật giáo. Một số người tin rằng việc cúng cô
hồn bắt nguồn từ ngày lễ Vu Lan này.
Để cúng, người ta hay thắp hương, đèn (hoặc
nến). Thường thì người ta khấn vái thầm thì với nội dung mời "bà con cô
bác" (ý nói các cô hồn) thụ hưởng các món cúng. Đôi khi người ta đọc một
bài văn tế cô hồn (thường là dạng văn vần), trong đó có thể miêu tả các cái chết thảm
khốc. Bài văn tế nổi tiếng nhất có lẽ là bài Văn
tế thập loại chúng sinh của
đại thi hào Nguyễn Du. Nhiều bài tế cô hồn phóng tác dựa
theo tác phẩm này với nội dung phù hợp với hoàn cảnh của địa phương nơi cúng.
Các món
đem cúng thường luôn có hương, hoa, đèn; gạo, muối, nước lã
là những đồ cúng thô hầu như luôn có, kèm theo là các món ăn, tráng miệng v.v.
Trong chùa hoặc
tại các gia đình có truyền thống Phật giáo, người ta cúng bằng các mónăn chay. Một món đặc biệt hay gặp trong mâm cỗ
cúng cô hồn là món cháo loãng,
người ta tin rằng món này dành cho những linh hồn bị đày đọa phải mang một thực quản nhỏ
hẹp không thể nuốt được thức ăn thông thường.
Buổi
cúng thường kết thúc với việc vãi gạo, muối ra sân, ra đường và đốt vàngmã. Ở vài nơi, người ta cho phép trẻ con cướp (cỗ) cô hồn khi việc
cúng được tiến hành xong.